Phân tích bài thơ Tây Tiến toàn bộ trọn bộ nhất

Phân tích bài thơ Tây Tiến hầu hết trọn bộ nhất
Phân tích Tây Tiến - Mẫu 1
“Có một ko gian nào,
Đo chiều dài nỗi nhớ?
Có khoảng mênh mông nào
Sâu thẳm hơn tình thương?”

(Trần Đình Chính)

​Thơ ca Việt Nam tiên tiến với cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ thương mà Hoàng Cầm đã gửi lại mảnh đất của mình trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”, là nỗi thương nhớ của người con xa quê qua bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. Đôi khi đấy còn là nỗi thương nhớ trong ái tình mà người bên đấy chỉ dám gửi cho người bên này trong bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn. Và Quang Dũng – người nghệ sĩ đa tài cũng ko cần là 1 ngoại lệ lúc đặt tình cảm của mình nơi những người đồng chí, đồng đội qua bài thơ “Tây Tiến”.

Nói về Quang Dũng là ta nhớ ngay tới tác phẩm thơ đặc nhan sắc viết về đề tài người lính của ông - Tây Tiến. Có lẽ do nó đã gắn bó một thời sâu sắc mang nhà thơ. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được ra đời năm 1947, sở hữu nhiệm vụ phối hợp với Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh lãng phí sinh lực địch ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng tới năm 1984, Tây Tiến giải thể, ra đời Trung đoàn 52, Quang Dũng cũng chuyển sang tổ chức khác ở Phù Lưu Chanh – 1 làng ven bờ ở sông Đáy. Trong nỗi nhớ về công ty cũ của mình, ông sáng tác thành công bài thơ sở hữu dòng tên lúc đầu là “Nhớ Tây Tiến” nhưng một thời kì sau, khi in lại trong trong tập “Mây đầu ô” ông đã bỏ từ “nhớ” trong tiêu đề vì suốt cả bài thơ là mạch chiếc cảm xúc của nỗi nhớ, 1 nỗi nhớ da diết, cồn cào, chỉ sở hữu hai từ “Tây Tiến” cũng đủ để gợi lên cảm hứng chủ đạo trong bài thơ, ấy là nỗi nhớ.

​Bài thơ khởi đầu bằng các câu thơ có âm điệu trầm, buồn và sâu lắng. Ẩn sâu trong đó là nỗi nhớ về tự nhiên núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về con đường hành binh hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng vô cùng đỗi thơ mộng, trữ tình của 1 thời Tây Tiến đã qua! Nỗi nhớ ấy biểu lộ qua hai câu đầu của thi sĩ được thốt lên thành tiếng gọi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Mở đầu bài thơ, tác fake đã đề cập đến hình ảnh sông Mã. Và ta cũng thấy rằng, sông Mã xuất hiện ở đầu tác phẩm và gần cuối tác phẩm, đây chính là nghệ thuật đầu cuối tương ứng, bắt mạch vòng mang nhau để miêu tả 1 điều rằng sông Mã gắn liền mang suốt đoạn đường hành binh của người quân nhân Tây Tiến từ vùng địa bàn này sang vùng địa bàn khác. Mặt khác, con sông Mã đó còn được nâng tầm để vươn lên là một chứng nhân lịch sử ghi lại tội ác tày trời của kẻ thù và các chiến công vẻ vang của người lính Tây Tiến. Như thi sĩ Phan Quế đã nhận xét: “Câu thơ như một tuyết bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, gan dạ và anh dũng trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo phải chất hiệp sĩ tứ thơ”. “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên tổ chức lính mà nó đã phát triển thành một người bạn “tri âm, tri kỷ” để thi sĩ với thể thanh minh tâm sự. Câu thơ cảm thán kết hợp có điệp từ “nhớ” biểu đạt nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào trong tâm khảm Quang Dũng, làm cho nỗi nhớ đấy cứ bềnh bồng như 1 dải lụa, vương vít trong lòng người đọc mãi ko nguôi. Nỗi nhớ đấy đâu chỉ riêng về cái sông Mã, mà ấy còn là nỗi nhớ về Trung đoàn Tây Tiến đã cùng nhà thơ trải qua đa số cạnh tranh gian khổ, nỗi nhớ đấy cũng song song là nỗi nhớ về địa bàn hoạt động, là nhớ về tự nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở vừa thơ mộng vừa trữ tình Đặc biệt là bí quyết đề cập “nhớ chơi vơi” đã khắc họa phải loại hồn của câu thơ. Thơ ca Việt Nam lúc kể về nỗi nhớ có phổ biến phương pháp diễn tả. Ca dao sở hữu câu:



“Nhớ ai bồi hồi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”

Cách nhắc “xa rồi” lại càng tạo thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, nhớ tiếc về một thời đã xa, về các khoảng thời gian, các kỷ niệm của 1 thời tươi đẹp, bởi các điều ấy sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. “Chơi vơi” là trạng thái trơ khấc giữa khoảng ko rộng lớn, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” ta mang thể hiểu là 1 mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, ko đầu, không cuối, không mang vật dụng tự thời gian, ko gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bâng khuâng khiến cho cho con người mang cảm giác đứng ngồi chẳng yên. Vần “ơi!” hài hòa sở hữu từ “chơi vơi” đó là tiếng gọi khẩn thiết về đoàn binh Tây Tiến, biểu lộ một nỗi nhớ sâu lắng, mênh mang, chênh chao giữa hai bờ hư thực, nỗi nhớ ko nổi hình nổi khối, khi cụ thể, lúc chìm mệnh chung trong hư ảo, chơi vơi. Nó còn vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ - nỗi nhớ thấm vào cảnh vật, thấm vào không gian, thấm cả vào thế giới bát ngát của các hoài niệm. ​Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt những địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu,…Tất cả đều là các nơi họ từng đi qua và giới hạn chân trên bước đường tiến quân gian khổ, những địa danh đó đã in đậm dấu chân của đoàn binh Tây Tiến. Càng rộng rãi địa danh hiện lên thì nỗi thương nhớ lại càng da diết, mà càng da diết thì lại tạo cảm giác xa xôi, hoang vu, bí ẩn.

​Trước hết là miền Tây Bắc hiện lên bởi con đường hành binh gian nan, vất vả. Tuy thời tiết sương mù lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng cũng thật trữ tình:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Nói đến Tây Bắc là nhắc đến vùng đất với địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Ấn tượng thứ 1 về thiên nhiên nơi đây vững chắc nên là sương. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày tới độ che lấp luôn cả đoàn quân Tây Tiến đang ngày đêm vượt núi, băng sông làm cho họ ko nhìn rõ mặt nhau. Động từ “lấp” làm ta như sở hữu cảm giác chính sương đã làm cho đoàn quân khó khăn thêm phần cạnh tranh hơn, bị trĩu xuống trong mỏi mệt. “Đoàn quân mỏi” nhưng ý thức họ không hề có chút sự mỏi mệt, nản chí nào, bởi ý chí kiên tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho họ trở thành kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng thật tài giỏi khi sử dụng hình ảnh sương để khắc họa sự hà khắc của thiên nhiên vùng Tây Bắc. Cũng biểu lộ sương, Chế Lan Viên đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương
​Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
​Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”

Nhưng cũng thật bất ngờ, trong chiếc gian truân, nặng nhọc đó vẫn mang nét lãng mạn mang hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, đấy chính là hương thơm của hoa nở vào khi đêm phảng phất nhẹ nhõm trong tâm hồn người lính. Nhưng ta cũng có thể hiểu “hoa” ở đây chính là những người lính Tây Tiến trở về, bởi Bác Hồ đã từng nói: “Con người ta là hoa đất, con người ta là đẹp nhất”, mặt khác hình ảnh hoa là một hình ảnh ẩn dụ chỉ các bó đuốc thông thường đang chập chờn, lung linh, ảo huyền mà người quân nhân cầm trên tay để soi đường chỉ lối trong những đêm dài hành quân nung nấu. Cái hay của thi sĩ là không đề cập hoa nở mà đề cập “hoa về”, ko kể đêm sương mà đề cập “đêm hơi”. Cách tiêu dùng từ ngữ đã chứng tỏ được vẻ đẹp trong tâm hồn của những anh bộ đội cụ Hồ là một tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

​Ngoài sự lạnh giá của sương thì dốc và đèo là những trang bị không thể bỏ qua khi đề cập về thiên nhiên miền Tây Bắc. Quang Dũng tả cảnh vượt dốc, băng đèo, đường đi nguy hiểm sở hữu dốc cao, vực thẳm, tuy hùng vĩ và dữ dội nhưng cũng cực kỳ thơ mộng, huyền ảo:



“Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng người trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Tác fake sử dụng điệp từ “dốc” nhằm nhấn mạnh độ cao mà người bộ đội bắt buộc trải qua. Với hàng loạt những từ láy tượng hình toàn vần trắc như: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” biểu lộ 1 phương pháp đắc địa sự hiểm trở của núi rừng, những chặng đường tiến quân luôn có sự hiểm nguy đang rình rập. “Khúc khuỷu” ý chỉ đường đi hiểm trở, rộng rãi gấp khúc. “Thăm thẳm” là từ chỉ độ sâu nhưng tác nhái lại dùng để chỉ độ cao, cao tới rợn người. Quang Dũng đã khéo léo khi ko dùng từ “chót vót”, bởi như thế thì người đọc mang thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó ai sở hữu thể mường tượng được nó sâu như thế nào. Để có thể đem lại 1 cảm giác chân thật như thế thì điểm nhìn của anh bắt buộc ở từ dưới lên mới mang thể thấy dốc khúc khuỷu, nhìn từ trên xuống mới biết dốc sâu thăm thăm, mà để sở hữu được mẫu nhìn như vậy thì buộc những anh phải trải nghiệm, nên hành quân đi lên các ngọn núi, con dốc đầy hiểm nguy ấy. Kết hợp sở hữu nhịp thơ 4/3 gập đôi câu thơ giúp bạn đọc tưởng tượng những anh đang cần treo mình trên những triền núi đá, 1 bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là núi cao chót vót. Ở câu thơ đầu mang 7 chữ thì đã tận 5 thanh trắc, gợi phải cảm giác chênh vênh, gập ghềnh, vô cộng nguy hiểm. Ta nghe như có tiếng thở mệt nhọc của người lính khi vượt qua đèo dốc, vực sâu. Đây cũng là chất nhạc trong thơ Quang Dũng, khiến cho ta hệ trọng tới tiếng nhạc trong bài hát “Nhạc rừng” của nhạc sĩ Hoàng Việt. “Cồn mây heo hút” trình bày sự vắng vẻ, ko có bóng người. Quang Dũng đã viết “súng ngửi trời” chứ không cần là “súng chạm trời”, bởi “chạm” hay “đụng” thì ý câu thơ sẽ yếu hẳn đi, đồng thời “súng ngửi trời” cũng diễn đạt vẻ đẹp hiên ngang của chiến binh dũng cảm, họ đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên nhiên, chinh phục nơi mà ít người lui tới. Khi người bộ đội Tây Tiến hành binh qua những đỉnh núi, mũi súng của các anh nhường như đã chạm tới đỉnh của bầu trời, khoảng cách được thu hẹp đến mức ngắn nhất giữa súng và trời, đó là hiện thực nhưng qua phương pháp nói này khiến tôn thêm vẻ đẹp khí phách của người bộ đội Tây Tiến, đồng thời đây cũng là các phút giây đùa vui, tếu táo, với nét tinh nghịch của người đồng đội trẻ với nhau. Quang Dũng sử dụng phép đối ở câu thơ đồ vật ba, đối “lên cao” với “thước xuống”, dấu phẩy đã bẻ gãy nhịp câu thơ 1 cách đột ngột tạo thành hai vế đối nghịch nhau. Thế núi bây giờ cao và nguy hiểm đến khủng khiếp, dốc lên cao rồi lại đổ xuống ngay tắp lự gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao vút, ngó xuống thì sâu thăm thẳm, khoảng phương pháp giữa đỉnh dốc và mặt đất như xa “ngàn thước’ vạn dặm. Dẫu vậy, các người quân nhân vẫn thầm lặng tiến lên phía trước, đứng trên độ cao ấy, phóng mắt nhìn ra xa để rồi chợt vỡ vạc òa vui sướng trước cảnh thôn dã êm đềm trải dài trước mắt: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong làn mưa giăng giăng của núi rừng Tây Bắc thì những ngôi nhà ẩn hiện, cứ bập bồng giữa biển khơi của mưa và sương đọng lại. Nhìn từ góc độ hội họa thì nó như 1 bức tranh thủy mặc sở hữu những mẫu tả dung nhan nét nhưng cũng có các khoảng trống, khoảng lặng huyền ảo. “Nhà ai” là những mái nhà, bản làng của người vùng cao, các anh luôn luôn được đón tiếp nhiệt tình và đây cũng là địa điểm nghỉ chân của các anh. Vẻ đẹp này ta cũng từng bắt gặp trong bài “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung Thông:

“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bị rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về”

Đó là cảm giác bình lặng của người quân nhân lúc được nhìn thấy những mái nhà của đồng bào miền cao. Và vui hơn nữa lúc các anh được đón tiếp bằng tình cảm quân dân nồng ấm.

​Bốn câu thơ này được phối hợp sở hữu nhau rất đặc biệt, sau ba câu thơ được vẽ bằng nét gân guốc thì câu thơ vật dụng tư lại được vẽ bằng một nét siêu mềm mại. Không nên khi không mà tuấn kiệt hội họa của Quang Dũng lại được đa số nhân tình mến đến vậy. Bởi quy luật sử dụng những gam màu trong hội họa là giữa các gam màu nóng phải pha chút gam màu lạnh để tạo sự hài hòa cho bức tranh, thì ở đây thi sĩ cũng dùng đúng như vậy trong thơ ca của mình từ những thanh bằng – trắc. Không chỉ là tranh mà những hình ảnh ấy còn là nhạc, sau các nốt lên cao lại là nốt trầm thấp, bởi vậy kể như Xuân Diệu: “Đọc Tây Tiến, người ta như ngậm âm nhạc trong miệng” cũng là một nhận xét thật tinh tế.



Tuy trên chặng đường hành quân, những anh gặp muôn ngàn khó khăn, gian nan đến tột bực nhưng ta vẫn thấy ở các anh sở hữu sự can tràng tột bậc. Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực của tự nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên 1 tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nhắc đến sự hi sinh của đồng đội trên các chặng đường hành binh vô cùng khó khăn:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

“Tây Tiến” đã từng sở hữu một thời gian ko được đưa vào chương trình giảng dạy bởi tác phẩm đã kể đến đề tài nhạy cảm trong văn chương Việt Nam thời chiến tranh, ấy là viết về cái chết, viết về sự hi sinh. Chúng ta biết rằng, văn học muốn thuyết phục lòng người thì đầu tiên nên chân thật. Dù là viết về chiến tranh nhưng Quang Dũng ko nài nỉ hà, né tránh sự thực đau thương. Vì vậy mà “Tây Tiến” được một lần nữa đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác văn chương. Hai tiếng “ anh bạn” chứa lên như 1 tiếng nấc nghẹn ngào. Sức nặng của câu thơ đã dồn vào từ láy “dãi dầu” diễn đạt vất vả, cạnh tranh trên chặng đường hành quân. Đặc biệt thay, tác kém chất lượng ko viết “bị gục xuống” mà ông lại viết là “không bước nữa”, biến những anh từ thế tiêu cực sang chủ động, họ chấp nhận dòng chết, coi nó chỉ đơn thuần như một giấc ngủ mà thôi. “Súng mũ” là biểu tượng của người lính, cho thấy rằng dù với ra đi, các anh vẫn ko quên mình vẫn là 1 người lính, dù sở hữu gục cũng nên “gục lên” súng mũ của người lính, tư thế hi sinh đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về người quân nhân gan dạ hy sinh đó sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”:

“Và anh chết trong lúc đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Dáng của những anh bộ đội cụ Hồ dù có gục xuống nhưng vẫn ko phai mờ trong tâm của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của cả những người tham dự kháng chiến. Họ đã hy sinh trên chặng đường hành quân, đã mang những người quân nhân nằm xuống, rõ ràng súng đã nổ, người dân Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh ko phải là trò đùa, với người ra đi thì có người hi sinh, ấy là điều cực kỳ đỗi bình thường. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. “Bỏ quên đời” là bí quyết đề cập giảm nhẹ sự mất mát, tang thương. Khi người bộ đội từ trần, dòng chết hiện nay trở nên ko đáng kể. Cách nhắc giảm phần thê lương mà tăng thêm cái thuộc tính cao cả, sự hy sinh thầm lặng của những người bộ đội Tây Tiến. Thông qua lăng kính lãng mạn của tác fake thì sự hi sinh đấy hiện về chỉ như giấc ngủ của người lính. Ông thật tài tình lúc biểu lộ chiếc chết của người quân nhân nhẹ tựa lông hồng. Nhưng dù thế nào vẫn không thể biểu thị hết được sự xót xa, thương tiếc, bởi vậy tác kém chất lượng đành ngùi ngùi đặt dấu chấm cảm “!” cuối câu như 1 nén nhang tâm tư gửi lại.

​Khó khăn chưa dừng lại ở đó, đất Tây Bắc đâu chỉ mang đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn suối lũ mà còn biết bao thử thách khó khăn hơn. Chặng đường hành quân của những anh qua núi rừng Tây Bắc đầy hoang dại, bí ẩn, nhịn nhường như là để thử thách bước chân của người quân nhân :

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Quang Dũng đã sắm ra hai mốc thời kì là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là thời điểm diễn đạt rõ nhất sự hiểm nguy của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự hiểm nguy ấy cứ tuần hoàn, tuần hoàn, mỗi ngày những anh đều bắt buộc đối diện mang các khó khăn, hiểm nguy như thế. Các anh phải thường xuyên hành quân qua các mảnh đất rừng thiêng nước độc cho bắt buộc bị ám ảnh trong tâm hồn là tiếng thác nước gầm thét dữ dội. Ở nơi xa xôi, tự nhiên làm cho chủ thì cạnh tranh như tăng thêm bội phần. “Mường Hịch” mang sức nặng dồn vào từ “Hịch” miêu tả bước chân nặng trịch mang bóng cọp vờn người, cọp ăn giết thịt người, cọp xé xác người, cọp giết thịt người. Nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh của người quân nhân thì bóng nổ đấy chỉ đơn thuần là trò đùa trẻ con, điều này được biểu thị qua từ “trêu” để thử thách sự gan dạ, độ bền gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.

​Và ở những câu thơ này, tác kém chất lượng biểu lộ siêu chân thực, dù chúng ta không sống ở thời kỳ này, chúng ta vẫn chưa từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa tòng ngũ vào đoàn binh Tây Tiến. Nhưng đọc tác phẩm ta thấu hiểu được gian lao mà người bộ đội trải qua. Để khép lại khổ một, thi sĩ đã kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ đó phả vào bản làng Tây Bắc thân yêu:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”​

Lần thứ hai trong bài thơ, tác kém chất lượng gọi tên đơn vị Tây Tiến, cần chăng ông nhớ quá những gian khổ, kỉ niệm gắn bó mang các đồng đội của mình trong suốt những năm tháng kháng chiến cùng nhau bắt buộc Quang Dũng mới thốt lên “nhớ ôi Tây Tiến” như vậy. Sau chặng đường tiến quân vất vả, mỏi mệt các chiến sĩ mang dịp dừng chân dựng trại ở 1 bản làng có tên vô cùng đỗi thân thương-Mai Châu. Ở đây các thiếu nữ dân tộc trẻ trung dễ thương mang cơm nếp thơm lên cho các anh, cộng những anh quay quần ngồi bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, cạnh tranh đều tan biến. Đây là khuông cảnh mặn mòi tình quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc tắt hơi nào đấy nhịn nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt vui ku tươi. Sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào Mai Châu tiếp đón bằng “cơm lên khói” cộng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Quang Dũng đã dùng từ “mùa em”thể hiện sự sắp gũi, thân thương và nó gắn bó như “tình em”, những anh lính cụ Hồ nhớ các vụ mùa, nhớ cơm nếp thơm và nhớ cả những bóng hồng miền sơn cước. Cũng kể về hương nếp, hương xôi và tình cảm quân dân, Chế Lan Viên đã viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:

“ Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không sở hữu lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”



Nhớ mùi hương thơm của lúa gạo là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.

​Mười bốn câu đầu của bài thơ “Tây Tiến” 1 trong những bài thơ hay nhất viết về người bộ đội trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên ấy vượt trội là hình ảnh đội viên đầy bản lĩnh và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa. Nửa thế hệ trôi qua, bài thơ vẫn giữ được trị của mình. Như bốn câu thơ của Giang Nam:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn thuở với núi sông”

​Cảnh núi rừng hoang vu, chênh vênh, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi tắt hơi hẳn, nhường nhịn bước cho một thế giới hoàn toàn khác của núi rừng Tây Bắc. Những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi bút tài giỏi của Quang Dũng cũng được biểu đạt rõ nhất trong đoạn thơ vật dụng hai. Đó là nỗi nhớ về những đêm giao lưu văn hóa văn nghệ và vẻ đẹp huyền hồ của tự nhiên miền Tây Bắc. Mở đầu phần hai là sự tiếp nối chiếc hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã phát triển thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, phát triển thành hành trang trong tâm hồn của các chiến binh Tây Tiến. Trên con đường hành quân gian khổ, các anh ngừng chân dựng trại và được sự tiếp đón nồng hậu, thân mật của người dân. Đối có Quang Dũng cũng như các người lính, không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân có ánh lửa sáng bừng luôn là các kỉ niệm khó có thể quên:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

​Đêm liên hoan văn nghệ được doanh nghiệp ngay ở doanh trại bộ đội, đây là hiện thực. Không gian ở bốn câu thơ không còn rộng to như đoạn thơ đầu, mà không gian giờ đây được thu hẹp lại thành “doanh trại” – 1 ko gian bình yên, được coi là mái nhà của người lính. Ở đây, những người lính không buộc phải gồng mình lên để thắng lợi các khó khăn, vất vả mà tâm hồn họ đích thực được thư giãn. Hai từ “bừng lên” trong câu thơ như điểm thêm phần tưng bừng náo nhiệt, ấm áp, rực rỡ, chứa chan ánh sáng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng, “bừng” cũng với nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tâng bừng rộn rã. Ở đây, Quang Dũng đã mang phương pháp ví von đầy nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. “Đuốc hoa” trong Hán Việt sở hữu tức là nến hoa chúc – 1 biểu tượng hạnh phúc của những đôi uyên ương, là từ ngữ được tiêu dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn sở hữu chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Nhưng thật ra, “đuốc hoa” ở đây chỉ là những bó đuốc thông thường trong các đêm giao lưu văn nghệ của người quân nhân Tây Tiến, lúc với gió thổi qua làm cho những bó đuốc ấy phát ra các tia lửa và nhìn nhận qua lăng kính lãng mạn của tác nhái thì lại vươn lên là đuốc hoa, khiến cho cho ta liên hệ đến lễ cưới. “Kìa em” là sự ngắm nghía, song song là lời thốt lên bất ngờ vì vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa của những cô gái miền cao. Đằng sau từ “kìa” là thấy cả ánh mắt, nụ cười this site khôn cùng yêu đời, tình nghịch, phong thái và tài ba của người lính Tây Tiến. “Xiêm áo” chính là các bộ trang phục đẹp của người con gái miền cao, nhưng ta với thể hiểu đây là hình ảnh vô cộng vui tươi, tinh nghịch của người lính khi các anh mặc các bộ xiêm y của nữ giới cùng nhau vui đùa, nhảy đầm múa xung quanh ngọn lửa trại. Từ xa xưa, các mẫu khèn bè đã được dùng làm cho nhạc đệm trong tất cả những làn điệu dân ca, khiến nền cho những điệu dân vũ, điệu múa lăm vông, hát đối, giao duyên, trong các dịp lễ Tết, lễ hội hay tiếng khèn sử dụng để gọi bạn tình đêm khuya của các chàng trai cô gái Lào lúc yêu nhau. Tiếng khèn bè trầm bổng, sâu lắng, dồn dập, rộn ràng, háo hức cả không gian im ắng. Khi tiếng khèn chứa lên làm người nghe thấy da diết, sâu lắng, ngân nga trong sáng như tiếng suối reo, gió hát, hiện nên vẻ hoang sơ,hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Bởi thế, Quang Dũng đã không khỏi say sưa và quyện vào tiếng nhạc du dương của khèn, vừa lạ vừa với tính nguyên sơ mà thắm thiết bản nhan sắc văn hóa dân tộc. Từ “man điệu” mà tác fake dùng ở đây cũng rất tài hoa, người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Trong các đêm sinh hoạt ấy mang y phục đẹp, có cả âm nhạc, mang các điệu múa, điệu dancing vui tươi và ko khí ở đây là không khí mê say ngây ngất. Điều đấy được chứng tỏ lúc ban đầu ông sử dụng từ “em” sau ông lại chuyển sang dùng từ “nàng”. Từ cách sử dụng ấy, ta cảm nhận em như 1 nàng tiên kiều diễm và ta như lạc cõi thần tiên mang 1 ko khí say mê đến ngây ngất. Những thiếu nữ Mường,Thái xinh đẹp, duyên dáng “e ấp” xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cộng có tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ”, xây cả nỗi nhớ bâng khuâng trong lòng những người quân nhân trẻ. Địa danh Viêng Chăn ko bắt buộc là địa danh của Việt Nam, mà đấy là thủ đô của Lào. Ta nhận thấy được sự đặc biệt trong địa bàn hoạt động của người quân nhân Tây Tiến. Họ ko chỉ tranh đấu trên nước ta, mà còn cầm súng trên đất bạn Lào. “Nhạc về” tạo bắt buộc độ phiêu du phiêu lãng làm cho tâm hồn người lính trở nên thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó là lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những giây phút đó đã nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường tiến quân phía trước.

Ở đoạn thơ này, tác nhái đã khiến xuất hiện 1 thế giới khác của Tây Bắc, tự nhiên giờ đây không còn khốc liệt, dữ dội nữa mà nó hiện ra mang vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình. Ngòi bút của Quang Dũng có sự thay đổi, bên cạnh nét vẽ mạnh mẽ, khỏe khoắn thì vẫn sở hữu những đường nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Tất cả làm cho bức tranh tự nhiên và con người miền Tây hiện lên rất rõ.

​So mang bốn câu thơ trên là hình ảnh ko khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp có ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của những đội viên Tây Tiến thì bốn mẫu thơ tiếp theo, Quang Dũng đã đưa người đọc đến có hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương. Một ko gian bảng làng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng thị hóa. Cái dữ dội, ác liệt được đẩy lùi thay vào đó là các hình ảnh nhẹ nhõm và thơ mộng:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi mẫu nước lũ hoa đong đưa”

“Người đi” chắc hẳn là người quân nhân Tây Tiến. Ngòi bút Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh của 1 “chiều sương” cho ta thấy nét đặc thù vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương lúc này ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ, mà chỉ là những làn sương thường ngày mở ảo, nó gợi màu sắc bảng lảng, khói sương và sở hữu chút man mác buồn. Địa danh độc nhất vô nhị trong khổ hai chính là Châu Mộc, bởi ở đây có cảnh sắc đẹp thiên nhiên siêu đẹp, nơi đây mang núi sông diệu lệ, mang lung lũng lúa chín vàng, mang gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực rỡ. Mở ra ở ấy là 1 không gian buổi chiều được giăng mắt lên là mùa của sương khói hiện ra như 1 miền cổ tích, chính vì thế mà Châu Mộc là nơi để lại cho các anh nhiều ấn tượng, kỷ niệm sâu sắc nhất. Đại từ “ấy” khiến rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương, nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm cần tình người cũng man mác, bâng khuâng. Chữ “ấy” bắt vần sở hữu go to this website chữ “thấy” ở câu thơ sau, một vần lưng thân tình, âm điệu câu thơ như bị trĩu xuống như một nút nhấn. Nữ nhà thơ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ về “hồn lau”, nhớ về dòng xạc xào của gió, nhớ những cờ lau trắng trời, những cây lau giăng khắp đa số nẻo bến bờ, hiện ra như những đôi bờ tiền sử. Trong văn học Nguyễn Tuân thì cảnh vật ko hề vô tri vô giác, bởi đấy là nghệ thuật nhân hóa “hồn lau”. Nỗi buồn, tâm trạng của người đi nhịn nhường như cũng khuếch tán vào cảnh vật, các bông lau sậy chập chờn đôi bờ cũng với hồn của nhà thơ, Ta nhớ thơ Chế Lan Viên:



“Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau trắng chỉ có 1 mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt 1 đời với gió giao tranh”

Những hình ảnh “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “bến bờ” và “hoa đong đưa” kết hợp có cách hỏi “có thấy, có nhớ” mở ra một sườn cảnh buổi chiều sương trong ký ức. Sương mờ giăng khắp không gian, bến bờ im lẽ hoang dã như một bờ tiền sử, trên sông xuất hiện 1 dáng người mềm mại, uyển chuyển nhưng cũng hết sức vững chãi của người đi trên thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đu đưa khiến duyên trong loại nước. Điệp ngữ “có thấy-có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một dòng thuyền được khiến từ cây gỗ to dài, dáng người trên chiếc thuyền độc mộc đó có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của các cô gái Thái, Mèo đang đưa những đội viên vượt sông. Nhưng ta cũng có thể xem đây là dáng hình dũng cảm của các đội viên Tây Tiến đang chống chèo con thuyền vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh đó đều để lại trong lòng Quang Dũng một cách khó phai nhòa. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu. Ai nói rằng đất Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy để tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn. Câu thơ cuối được tác nhái dùng từ rất tinh tế, ông đã dùng từ láy hoa “đong đưa” chứ không buộc phải là “đung đưa” hay “đu đưa”, bởi giả dụ viết “hoa đung đưa” thì cảnh vật ở đây vô tri vô giác, gợi đến 1 sự di chuyển về cơ học khô khan, còn “hoa đong đưa” thì lại với hồn người, trình bày sự đi lại duyên dáng, tình tứ, bông hoa lau vươn lên là những sinh thể với hồn đang làm cho duyên, làm dáng trên mặt nước sóng sánh, chòng chành. Cánh hoa rừng như cũng lưu luyến con người, cánh hoa đấy như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn những anh vượt sông đi đánh giặc. Cảnh như có hồn, có sự linh nghiệm của núi rừng, mặn mòi màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta thấy như trước mắt mình 1 bức tranh sơn thủy hữu tình có dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến và gắn bó có mảnh đất miền Tây trong tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của những đội viên Tây Tiến trước cái đẹp.

​Tám câu thơ đã vẽ phải khuông cảnh thiên nhiên, con người miền Tây sở hữu vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất họa, chất mộng mơ hòa quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo cần 1 thế giới của dòng đẹp. Từng nét vẽ của tác fake đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ thể hiện rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong bài nói chung bài thơ.

​Giữa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng đầy thơ mộng trữ tình là hình ảnh người quân nhân Tây Tiến có những gian khổ thiếu thốn được diễn tả qua khổ thơ trang bị ba. Nếu như những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp, nói tới gian khổ, hy sinh và địa bàn hoạt động thì ở đây, đoàn quân đấy đã hiện lên có các nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã trở thành khuôn sáo khi kể tới sự can trường của các chiến binh:

“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Đó là bức tượng đài bi hùng về các chàng trai xuất thân từ thủ đô hoa lệ, họ sẵn sàng ra đi có lý tưởng sống cao đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai câu thơ trên đề cập về mẫu mã của người bộ đội Tây Tiến, sở hữu vẻ đẹp ở đây là viết về cái ốm nhưng không hề yếu. Nhà thơ miêu tả, khắc tạc cả 1 tập thể của mình, các con người anh hùng được tác giả gọi bằng loại tên tương đối thú vị - “Đoàn binh không mọc tóc”, mẫu hào hùng hiện lên qua phương great site pháp sử dụng từ Hán Việt “đào binh” thay vì là “quân ấy” nhằm gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường, gợi âm vang khỏe khoắn, khẳng định 1 lực lượng đông đảo, hừng hực khí thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng loại tên bắt nguồn từ hiện thực hà khắc – “Tiểu đội xe không kính”, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và chất quân nhân dí dỏm hài hước.

Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực, thực một bí quyết trần trụi: Chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết bệnh thì nhiều, với các con suối khiến họ rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. Câu thơ cũng với đến một nét nghĩa nữa là người bộ đội Tây Tiến họ tự cạo trọc đầu phát triển thành các anh “vệ trọc” để giữ vệ sinh trong cuộc kháng chiến thiếu thốn trăm bề và cũng dễ thuận lợi trong việc đánh giáp lá cà. Và nhà thơ còn đề cập tới 1 căn bệnh đã ám ảnh vào cả một thời kì trong văn học của thời kì kháng chiến chống Pháp, căn bệnh làm cho các anh bị rụng tóc ấy là bệnh sốt rét rừng. Một căn bệnh nguy hiểm đã hoành hành dữ dội khiến cho cho người đội viên chết đường chết bệnh còn nhiều hơn là chết trận. Thơ ca kháng chiến đã từng ghi lại các hình ảnh thật cảm động về sự tiều tụy của người chiến sĩ vì sự nguy hiểm của căn bệnh này, không chỉ người quân nhân trong “Tây Tiến” mà ngày trong cả bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu cũng sở hữu kể đến:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Quang Dũng thật tinh tế khi viết “không mọc tóc” chứ ko cần là “tóc ko mọc”, bởi “không mọc tóc” được ông sắp xếp từ ngữ để chỉ chiếc ngang tàng, ngạo nghễ, tinh thần vượt lên trên sự khốc liệt của cuộc chiến ở người bộ đội nhưng sở hữu nét hóm hỉnh, đùa vui là ko phải mọc tóc, nhìn qua lăng kính lãng mạn của tác nhái chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Từ đó ta thấy rằng, hiện lên trong trang thơ của Quang Dũng ấy là vẻ đẹp của các anh vệ trọc đáng yêu, tuy ốm nhưng chẳng phải yếu.

Trong thực tế, “xanh màu lá” chính là màu xanh của làn da đang bị ốm, làn da xanh xao, vàng vọt, bủng beo. Điều này ta có thể thấy sự tương đồng trong bài “Cá nước” của thi sĩ Tố Hữu:

“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên mẹ anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế”

Hay trong thơ của Thôi Hữu cũng có nhắc:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa các ngày hoa”

Đâu chỉ riêng các người bộ đội trong thơ Quang Dũng mới bị mắc bệnh, mới cần chết vì căn bệnh khốc liệt này. Thế nhưng 1 lần nữa chuẩn y lăng kính lãng mạn của Quang Dũng, màu xanh đấy ko còn là màu của làn da đang bị ốm nữa mà nó vươn lên là màu xanh của áo lính, màu xanh của lá cây ngụy trang, xanh dung nhan mạ non, xanh lũy tre làng. Quang Dũng đã sử dụng từ “dữ oai hùm” 1 phương pháp cực kỳ sáng tạo, tạo bắt buộc âm hưởng mạnh mẽ cho câu thơ làm người đọc cảm nhận được sức mạnh tinh thần, khí thế oai hùng khiến cho kẻ địch khiếp sợ của đoàn binh. Hình ảnh người lính Tây Tiến trong tư thế khiến chủ thiên nhiên, làm cho chủ đất trời Tây Bắc, đạp đổ đa số gian khổ, cạnh tranh để tiến về phía trước, họ mạnh mẽ, uy phong lẫm liệt như mãnh hổ ngự trị chốn rừng xanh rộng lớn. Câu thơ đồ vật hai tạo ra hai vế đối nghịch giữa “quân xanh màu lá” sở hữu “dữ oai hùm”, 1 bên là dòng thiếu thốn, cạnh tranh gian khổ, 1 bên là khí phách anh hùng của những người bộ đội Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo buộc phải một âm hưởng mạnh mẽ, hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Như Vũ Quần Phương nhận xét: “Quân xanh màu lá, màu áo hay màu da? Chắc cả hai! Chỗ này tả bộ đội vô cùng khéo, nói được lính ấp ủ mà không yếu, sở hữu tóc rụng, sở hữu da xanh, nh

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *